Suppose, monks, that a sheaf of barley were thrown down at a large four-way intersection, and six men were to come along with flails in their hands. They would thrash the sheaf of barley with their six flails. Thus the sheaf of barley would be thoroughly thrashed with the six flails. Then a seventh man would come along with a flail in his hand. He would thrash the sheaf of barley with a seventh flail. Thus the sheaf of barley would be even more thoroughly thrashed with the seventh flail.


Ví như, này các Tỷ-kheo, một bó lúa quăng tại ngă tư đường, rồi sáu người đến, tay cầm cái đập và họ đập bó lúa ấy với sáu cái đập (vyàkgǵ) Như vậy, này các Tỷ-kheo, bó lúa ấy được khéo đập với sáu cái đập ấy. Rồi một người thứ bảy đến, tay cầm cái đập, và người ấy đập bó lúa ấy với cái đập thứ bảy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, bó lúa ấy lại càng được khéo đập với cái đập thứ bảy.

 

In the same way, the uninstructed run-of-the-mill person:
-Is thrashed in the eye by charming & pleasurable forms.
-Is thrashed in the ear by charming & pleasurable sounds.
-Is thrashed in the nose by charming & pleasurable aromas.
-Is thrashed in the tongue by charming & pleasurable flavors.
-Is thrashed in the body by charming & pleasurable tactile sensations.
-Is thrashed in the intellect by charming & pleasurable ideas.
And if that uninstructed run-of-the-mill person forms intentions for the sake of further becoming in the future, then he — that foolish person — is even more thoroughly thrashed, just like the sheaf of barley thrashed with the seventh flail.


Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu:
-Bị đập trong con mắt bởi những sắc khả ái và không khả ái.
-Bị đập trong tai bởi những tiếng khả ái và không khả ái.
-Bị đập trong mũi bởi những hương khả ái và không khả ái. -Bị đập trong lưỡi bởi những vị khả ái và không khả ái.
-Bị đập trong thân bởi những xúc khả ái và không khả ái.
-Bị đập trong ư bởi những pháp khả ái và không khả ái.
Này các Tỷ-kheo, nếu kẻ vô văn phàm phu ấy lại nghĩ đến tái sanh trong tương lai, như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si ấy lại càng bị khéo đập hơn nữa. Ví như, này các Tỷ-kheo, bó lúa ấy lại được đập với cái đập thứ bảy nữa.

 

Once, monks, the devas & asuras were arrayed for battle. Then Vepacitti, the lord of the asuras, addressed the asuras: 'If, dear sirs, in the battle of the devas arrayed against the asuras, the asuras win and the devas are defeated, bind Sakka, the lord of the devas, neck, hand, & foot and bring him before me in the city of the asuras.'


Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, cuộc chiến xảy ra giữa chư Thiên và các A-tu-la rất là khốc liệt. Này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua A-tu-la gọi các A-tu-la: "Này Thân hữu, trong cuộc chiến đang khởi lên giữa chư Thiên và loài A-tu-la rất là khốc liệt, nếu các A-tu-la thắng và chư Thiên bại, hăy trói Thiên chủ Sakka hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, và dắt vua ấy đến trước mặt ta, trong thành của các A-tu-la".

 

As for Sakka, lord of the devas, he addressed the devas of the Thirty-three: 'If dear sirs, in the battle of the devas arrayed against the asuras, the devas win and the asuras are defeated, bind Vepacitti, the lord of the asuras, neck, hand, & foot and bring him before me in the righteous assembly of the devas.'


C̣n Thiên chủ Sakka gọi chư Thiên ở cơi trời Ba mươi ba: "Này Thân hữu, trong trận chiến giữa chư Thiên và các loài A-tu-la, trận chiến rất là khốc liệt, nếu chư Thiên thắng và các loài A-tu-la bại, hăy trói vua A-tu-la Vepacitti, hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, và dắt vua ấy đến trước mặt ta, trong giảng đường Sudhamma (Thiện Pháp)".

 

Now, in that battle the devas won. So the devas of the Thirty-three bound Vepacitti, the lord of the asuras, neck, hand, & foot and brought him before Sakka in the righteous assembly of the devas.


Nhưng trận chiến ấy, chư Thiên thắng và các loài A-tu-la bại. Rồi, này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cơi trời Ba mươi ba trói vua A-tu-la Vepacitti, trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, rồi dẫn đến trước mặt Thiên chủ Sakka trong giảng đường Sudhamma.

 

So there was Vepacitti, the lord of the asuras, bound neck, hand, & foot. When the thought occurred to him, 'The devas are in the right and the asuras are in the wrong. I'm now going over to the city of the devas,' then he viewed himself as freed from that fivefold bond. He was fully provided with the fivefold strings of heavenly sensuality. But when the thought occurred to him, 'The asuras are in the right and the devas are in the wrong. I will go over to the city of the asuras,' then he viewed himself as bound with that fivefold bond, deprived of the fivefold strings of heavenly sensuality.
That's how subtle the bonds of Vepacitti were. But the bonds of Mara are even more subtle. Anyone who construes is bound by Mara. Anyone who doesn't construe is freed from the Evil One.


Tại đây, này các Tỷ-kheo, vua A-tu-la Vepacitti bị trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua A-tu-la Vepacitti suy nghĩ như sau: "Chư Thiên theo Chánh pháp, c̣n A-tu-la theo phi pháp. Nay ta đi đến thành của chư Thiên", thời khi ấy vua A-tu-la tự thấy ḿnh được cởi trói hai chân, hai tay và thứ năm là cổ, và được hưởng thọ, được thưởng thức đầy đủ năm dục công đức cơi trời. Và này các Tỷ-kheo, khi vua A-tu-la suy nghĩ như sau: "Các A-tu-la theo Chánh pháp, chư Thiên theo phi pháp. Ở đây, ta sẽ đi đến thành của các A-tu-la", thời khi ấy vua A-tu-la tự thấy ḿnh bị trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, và bị tước bỏ năm dục công đức cơi trời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thật tế nhị là sự trói buộc của Vepacitti, và c̣n tế nhị hơn là sự trói buộc của Màra. Ai có tư tưởng (Mannamàna), người ấy bị Màra trói buộc. Ai không có tư tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.

 

'I am' is a construing. 'I am this' is a construing. 'I shall be' is a construing. 'I shall not be'...'I shall be possessed of form'... 'I shall not be possessed of form'... 'I shall be percipient'... 'I shall not be percipient'... 'I shall be neither percipient nor non-percipient' is a construing. Construing is a disease, construing is a cancer, construing is an arrow. Therefore, monks, you should train yourselves: 'We will dwell with an awareness free of construings.'


"Tôi là", này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. "Cái này là tôi", này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. "Tôi sẽ là", này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. "Tôi sẽ không là", là một tư tưởng. "Tôi sẽ có sắc", là một tư tưởng. "Tôi sẽ không có sắc", là một tư tưởng. "Tôi sẽ có tưởng", là một tư tưởng. "Tôi sẽ không có tưởng ", là một tư tưởng. "Tôi sẽ không có tưởng và không không có tưởng", là một tư tưởng. Có tư tưởng, này các Tỷ-kheo, là tham. Có tư tưởng là mụt nhọt. Có tư tưởng là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập: "Tôi sẽ sống với tâm không có tư tưởng".

 

'I am' is a perturbation. 'I am this' is a perturbation. 'I shall be' is a perturbation. 'I shall not be'... 'I shall be possessed of form'... 'I shall not be possessed of form'... 'I shall be percipient'... 'I shall not be percipient'... 'I shall be neither percipient nor non-percipient' is a perturbation. Perturbation is a disease, perturbation is a cancer, perturbation is an arrow. Therefore, monks, you should train yourselves: 'We will dwell with an awareness free of perturbations.'


"Cái này là tôi", là một động chuyển. "Tôi sẽ là", là một động chuyển. "Tôi sẽ không là", là một động chuyển. "Tôi sẽ có sắc", là một động chuyển. "Tôi sẽ có tưởng", là một động chuyển. "Tôi sẽ không có tưởng", là một động chuyển. "Tôi sẽ không có tưởng và không không có tưởng", là một động chuyển. Động chuyển, này các Tỷ-kheo, là tham. Động chuyển là mụt nhọt. Động chuyển là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập: "Tôi sẽ sống với tâm không có động chuyển".

 

'I am' is a wavering. 'I am this' is a wavering. 'I shall be' is a wavering. 'I shall not be'... 'I shall be possessed of form'... 'I shall not be possessed of form'... 'I shall be percipient'... 'I shall not be percipient'... 'I shall be neither percipient nor non-percipient' is a wavering. Wavering is a disease, wavering is a cancer, wavering is an arrow. Therefore, monks, you should train yourselves: 'We will dwell with an awareness free of waverings.'


"Tôi là", này các Tỷ-kheo, là một chấn động (phanditam). "Cái này là tôi", là một chấn động. "Tôi sẽ là", là một chấn động. "Tôi sẽ không là", là một chấn động. "Tôi sẽ có sắc", là một chấn động. "Tôi sẽ không có sắc", là một chấn động. "Tôi sẽ có tưởng", là một chấn động. "Tôi sẽ không có tưởng", là một chấn động. "Tôi sẽ không có tưởng và không không có tưởng", là một chấn động. Chấn động, này các Tỷ-kheo, là tham. Chấn động là mụt nhọt. Chấn động là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập: "Tôi sẽ sống với tâm không chấn động".

 

'I am' is a complication. 'I am this' is a complication. 'I shall be' is a complication. 'I shall not be'... 'I shall be possessed of form'... 'I shall not be possessed of form'... 'I shall be percipient'... 'I shall not be percipient'... 'I shall be neither percipient nor non-percipient' is a complication. Complication is a disease, complication is a cancer, complication is an arrow. Therefore, monks, you should train yourselves: 'We will dwell with an awareness free of complications.


"Tôi là", này các Tỷ-kheo, là một hư luận (papancitam). "Cái này là tôi", là một hư luận. "Tôi sẽ là", là một hư luận. "Tôi sẽ không là", là một hư luận. "Tôi sẽ có sắc", là một hư luận. "Tôi sẽ không có sắc", là một hư luận. "Tôi sẽ có tưởng", là một hư luận. "Tôi sẽ không có tưởng", là một hư luận. "Tôi sẽ không có tưởng và không không có tưởng", là một hư luận. Hư luận, này các Tỷ-kheo, là tham. Hư luận là mụt nhọt. Hư luận là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập: "Tôi sẽ sống với tâm không có hư luận".

 

'I am' is an act of conceit. 'I am this' is an act of conceit. 'I shall be' is an act of conceit. 'I shall not be'... 'I shall be possessed of form'... 'I shall not be possessed of form'... 'I shall be percipient'... 'I shall not be percipient'... 'I shall be neither percipient nor non-percipient' is an act of conceit. An act of conceit is a disease, an act of conceit is a cancer, an act of conceit is an arrow. Therefore, monks, you should train yourselves: 'We will dwell with an awareness free of acts of conceit.'


"Tôi là", này các Tỷ-kheo, là một ngă mạn. "Cái này là tôi", là một ngă mạn. "Tôi sẽ là", là một ngă mạn. "Tôi sẽ không là", là một ngă mạn. "Tôi sẽ có sắc", là một ngă mạn. "Tôi sẽ không có sắc", là một ngă mạn. "Tôi sẽ có tưởng", là một ngă mạn. "Tôi sẽ không có tưởng", là một ngă mạn. "Tôi sẽ không có tưởng và không không có tưởng", là một ngă mạn. Ngă mạn, này các Tỷ-kheo, là tham. Ngă mạn là mụt nhọt. Ngă mạn là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập: "Tôi sẽ sống với tâm trừ bỏ ngă mạn".

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | trở về đầu trang | Home page |